80s toys - Atari. I still have

Làm người trực đêm ở
nhà xác thành phố thì
cũng chẳng có gì đáng
khoe, nhưng công việc
này cho phép tôi vẫn đi
học đầy đủ vào ban ngày
và cũng có thể nghiên
cứu thêm vào ban đêm
bên cạnh những nhiệm vụ
phải làm vốn không nặng
nề gì.
Trong các ngăn kéo được
đánh số và gắn thẻ, các
xác chết trong đó sẽ
chẳng bao giờ quấy rầy tôi
trong khi tôi đang nặn óc
đánh vật với các vấn đề
tích phân. Tôi vẫn nghĩ
thế.
Tối hôm đó, tôi tới đổi
phiên cho Olaf Daly như
thường lệ. Olaf là một lão
già chết cứng với cái nghề
này vì đã lớn tuổi và vì cái
chân thọt, nên cả ngày
lão chỉ mong cho tới lúc
đổi phiên. Như mọi khi,
lão ầm ừ một câu chào rồi
tạm biệt cùng một lượt.
Với cái chân thọt mà lão
đi ra khỏi nhà xác coi bộ
nhanh nhẹn ác!
Còn lại một mình trong
gian phòng phía ngoài
vắng lặng , tôi đặt bình
thủy, chiếc radio và mấy
cuốn sách lên bàn, rồi tôi
lôi cuốn sổ trực to tổ bố
lại gần xem qua một lượt.
Olaf đã ghi chép việc xuất
nhập hàng ngày bằng nét
chữ khẳng khiu của lãọ
Một ông chết đuốị Hai
ông bà chết vì đụng xẹ
Một gã ngủ say tới bỏ
mạng khi nhà bốc cháỵ
Một chú đánh lộn bị đâm
chết. Một phụ nữ bỏ xác
trôi sông.
Công việc mỗi ngày của
Olaf rất đều đặn. Cả tuần
qua chẳng có gì đặc biệt
đáng chú ý. Ngoại trừ cái
con mụ tuần qua nằm ở
ngăn số 14.
Con mụ ấy nghe đồn là
phù thủy, mụ xưng là Phù
thủy Endor đệ tứ, nhiều
người tin mụ gớm. Vì mụ
sống ở một khu nghèo
nàn và thất học, kiếm ăn
bằng nghề coi bói, lên
đồng, đoán số đề, bán bùa
ngãi… nhưng dân láng
giềng nói bà ta chưa làm
gì bậỵ Một đêm trời nóng
nực, mụ leo lên mái nhà
khu chung cư. Không hiểu
do mụ ta trượt chân hay
vì muốn bay lên mặt
trăng nhưng thất bại, mà
người ta thấy mụ nằm
phơi xác trên mặt đường
nhựa trước khu chung cư
sáu tầng lầu đó, rồi được
mang tới đây, đặt trong
ngăn số 14. Mụ nằm trong
ngăn đông lạnh đó bốn
ngày thì có đứa con ở tận
đâu đâu đó tới nhận xác.
Với Olaf thì mụ ấy chưa
hoàn toàn đi khỏi đây,
lão già nói:
- Tao thề là có cái mùi gì
ở ngăn số 14 đó, giống
như mùi lưu huỳnh.
Tôi có thấy cái gì đâụ Mũi
tôi còn đầy nghẹt mùi của
phòng thí nghiệm nơi tôi
đã phải trầy trật để theo
kịp chúng bạn.
Tôi dẹp cuốn sổ để đi tuần
một vòng. Căn phòng kế
cạnh thắp đèn sáng
choang, nhưng lạnh tanh,
thênh thang và không
sinh khí. Nền phòng sạch
bông, thoang thoảng mùi
thuốc sát trùng. Ðằng kia
là cánh cửa lớn mở ra lối
cho xe chở xác chạy vào,
cạnh đó là cái bàn đá có
chân bánh xe, mặt bàn
dài thượt. May mắn mà
lúc này nó trống, được
lau chùi sạch sẽ chờ lúc
được sử dụng tớị Cái máy
lạnh phát ra tiếng rù rì
trầm trầm, chú ý mới
nghe thấỵ ở mé tay phải,
giống như một tổ ong
khổng lồ, là hàng hàng
lớp lớp những ngăn kéo
để chứa các xác chết
trong khi chờ thân nhân
đến nhận, hay sau cùng
thì nhà nước bỏ tiền ra
chôn làm phước.
Ngăn kéo nào có xác đều
được gắn thẻ, như thẻ
hành lý trong kho trên
máy bay hay tàu thủỵ Thẻ
được móc vào tay cầm
của ngăn kéọ
Tôi huýt sáo nho nhỏ, chỉ
vì muốn tạo một âm
thanh gì đó thôi, và bắt
đầu kiểm tra những thẻ
theo danh sách trong sổ
mà tôi vừa xem qua và
nhớ được.
Tới gần ngăn số 14, tôi
chợt khịt mũi “A! cái mùi
lưu huỳnh của lão Olaf
đây !”, tôi lẩm bẩm.
Ði qua ngăn kéo ấy một
bước thì tôi giật mình,
ngoảnh đầu, rồi xoay cả
người lạị
Olaf đâu có ghi xác nào
trong ngăn 14, nhưng mà
có thẻ gắn ở ngăn nàỵ Tôi
cúi người tới, đưa tay ra,
huýr sáo không thành
tiếng nữạ Tôi cầm tấm thẻ
lật qua lật lạị Một lần, hai
lần, rồi ba lần càng lúc
càng nhanh.
Ðứng thẳng dậy, tôi gãi
đầu một phát. Cả hai mặt
thẻ đều trống trơn, chẳng
ghi gì cả. Cha nội Olaf tuy
già, nhưng đâu đến nỗi
lẩm cẩm. Quên ghi tên
người vào thẻ, lão chưa
từng có vụ này bao giờ.
Rồi tôi nhếch mép cườị
Lão già này muốn đùa
đây, tôi đâu dè lão cũng
khoái giỡn như thế. Tôi lại
huýt sáo được thành
tiếng, nghe có vẻ tỉnh táo
lắm, nhưng không có gì
hay họ
Tôi nắm lấy tay cầm và
kéo mạnh. Ngăn kéo vốn
có bánh xe nên tuột ra
cái rẹt. Tiếng huýt sáo
của tôi chợt tắt ngúm.
Một con nhỏ đang nằm
trong đó! Tóc vàng, coi
trẻ măng, và đẹp nữa,
mặc dù đã chết.
Tôi đứng nhìn cô ta mà
nghe mấy ngón chân ngọ
ngoạy trong đôi giàỵ Nét
mặt cô thật dễ thương,
làn da mịn màng như lụạ
Ðôi mắt khép nhẹ như
đang ngủ, bờ mi cong và
dài, đen mướt. Cô mặc bộ
đồng phục y tá. Món duy
nhất cho tôi biết lai lịch
chút ít của cô là tấm lắc
dây chuyền ở cổ taỵ Trên
tấm lắc có khắc hai mẫu
tự: Z.L.
Tôi vội vàng quay đi, chạy
ra phòng ngoàị Vồ lấy
cuốn sổ trực, tôi lật vội ra
xem. Tôi không muốn
nghi oan lão Olaf.
Tôi rà một lượt, ngớ
người ra, rà lại lần nữạ Lật
trang trước coi phần ghi
chép hôm qua, và cả hôm
kia nữạ Tuyệt nhiên
không có ai được đưa vào
ngăn 14 cả.
Tôi chu mỏ, nhưng huýt
sáo không nổi, và bước
tới cửa vào phòng lạnh.
Mé trên cửa có hai khung
kiếng nên tôi có thể nhìn
vào trong mà không cần
mở cửạ Ngăn kéo 14 bị lôi
kéo ra vẫn còn nguyên ở
đó, và cô Z.L. tóc vàng
vẫn nằm chầng vầng một
đống như cũ .
Tôi cẩn thận ngồi xuống
ghế, rút khăn tay ra và
lau trán. Hít một hơi dài,
tôi nhấc phôn lên quay số
của Olaf. Khi nghe tiếng
chuông, tôi còn liếc lại
cửa phòng lạnh.
Giọng mụ vợ Olaf nghe
ngái ngủ:
- ồ, rất tiếc. Ông Olaf nhà
tôi chưa về. – Rồi chợt
giọng bà ta nghe tử tế
hơn – Chờ chút, tôi nghe
tiếng ông ấy mở cửạ
Giọng Olaf vang lên sau
tiếng đằng hắng:
- Rồi, chuyện gì?
- Tully Branson đây, bác
Dalỵ
- Không có cái vụ trực thế
cho mày đi nhậu với bạn
đâu à nghen !
- Không có đâu – tôi đáp
– cháu chỉ muốn biết về
cái cô trong ngăn 14.
- Không có ai trong ngăn
14 hết, Tullỵ
- Có mà, thưa bác. Một
cô tóc vàng đàng hoàng.
Trẻ và đẹp, chết uổng hết
sức. Chắc bác nhớ ra hén,
có điều bác quên ghi sổ
nhập cho cô ấỵ
Tôi nghe tiếng bà Daly
hỏi chồng chuyện gì đó,
rồi nghe ông ta nói với vợ:
- Chắc cái thằng Branson
này đêm nay nó mang
rượu vô đó uống quá!
- Không có, bác ơi – tôi cự
liền – Cháu khoái nhậu,
nhưng không có mang
rượu vô đây à nghen! Chỉ
có chuyện cô tóc vàng ở
ngăn 14 bác quên ghi sổ
thôi !
- Ðời nào tao lại quên
chuyện đó được?
- Có mà. Không tin bác
ghé đây coi đị
- Tao sẽ tới, con ạ ! Sai sót
này lớn lắm chứ chơi đâụ
Lão giộng ống nói xuống
thiếu điều làm tôi thủng
cả màng nhĩ. Còn tôi thì
nhẹ nhàng đặt ống nói
xuống, lấy bình thủy rót
một ít cà phê ra, đốt một
điếu thuốc, nhấp một ít cà
phê, châm một điếu
thuốc.
Nhấp miếng cà phê nữa,
cất bình thủy vào chỗ của
nó, thò tay lấy gói thuốc,
lúc đó tôi mới nhìn thấy
mình đã châm hai điếu bỏ
trên gạt tàn. Tôi mếu
miệng cười, duị tắt một
điếu để dành đêm khuyạ
Với bước chân khập
khiễng, lão Olaf bước vào
cứ như một con tàu đi
trong giông bãọ Ðáp lại
ánh mắt trợn trừng của
lão, tôi chỉ mỉm cười với
tất cả sự chắc ăn mình có
được, và mời lão vào
phòng xác.
Lão đi qua cánh cửa, tôi
theo sát nút. Ngăn 14 vẫn
còn kéo lòi ra ngoài ở đó.
Lão chẳng cần đi tới nơị
Nhìn một cái, lão quay lại
liền:
- Branson – lão nói – tao
mà còn trẻ là đập bể mặt
mày liền. Mày bắt một
người già mệt nhọc nửa
đêm tới một nơi hôi thối
như thế này đó hả? Vậy
mà lâu nay tao cứ nghĩ
mày là thằng nhóc tử tế
đó !
- Nhưng bác Daly…
- Không có “nhưng” con
mẹ gì cả ! Cái vụ này tao
sẽ báo cáo !
Tôi trợn mắt nhìn ngăn 14
như thằng khùng. Cô ta
vẫn còn đó, thù lù một
đống. Tóc vàng, xinh đẹp
và chết cứng.
Olaf xô tôi qua một bên
và bước đị Tôi níu lấy tay
lãọ Tôi đúng là còn nhỏ
tuổi, nhưng cũng đã mọc
râu rồị Tôi kêu lên:
- Bác Olaf. Bác thấy mà.
Cháu biết bác thấy mà !

Tiep>>